Lão tử có thực sự là người sáng lập ra Đạo giáo?

Theo Từ điển Oxford, Đạo giáo đề cập đến “một trường phái triết học Trung Quốc dựa trên các tác phẩm của Lão Tử, ủng hộ sự khiêm tốn và lòng đạo đức tôn giáo”. Đạo giáo vừa có phương diện triết học vừa có phương diện tôn giáo. Triết học Đạo giáo nhấn mạnh đến sự chiêm nghiệm nội tâm và sự kết hợp thần bí với tự nhiên. Sự khôn ngoan, học hỏi và hành động có chủ đích nên được bỏ qua để chuyển sang sự đơn giản và vô vi (không hành động hoặc để mọi thứ diễn ra theo chiều hướng tự nhiên của chúng). Các khía cạnh tôn giáo của Đạo giáo xuất hiện muộn hơn, vào khoảng thế kỷ thứ ba sau Công nguyên, kết hợp các yếu tố Phật giáo và phát triển thành một hệ thống.

Lao Tu co thuc su la nguoi sang lap ra dao giao

Khi người Trung Quốc nghĩ đến đạo Lão, cái tên đầu tiên xuất hiện trong đầu họ sẽ là Lão Tử, nhà triết học nổi tiếng của Trung Quốc. Tên thứ hai là Trang Tử, một triết gia Trung Quốc khác. Cả hai triết lý của Lão Tử và Trang Tử đều đóng vai trò là nền tảng lý thuyết cho tôn giáo Đạo giáo ngày nay: “Sống trong thời kỳ xã hội rối ren và chủ nghĩa hoài nghi tôn giáo lớn”, Lão Tử và Trang Tử đã phát triển khái niệm về Đạo là “Nguồn gốc của mọi tạo vật và lực lượng, không thể biết được về bản chất của nó nhưng có thể quan sát được trong các biểu hiện của nó, nằm đằng sau sự vận hành và những thay đổi của thế giới tự nhiên” và Đạo gia đã tiếp thu ý tưởng vào học thuyết của họ.

Tuy nhiên, Lão Tử và Trang Tử không phải là người sáng lập ra Đạo giáo. Russell Kirkland viết: “Không giống như Phật giáo, Nho giáo hay Cơ đốc giáo, Đạo giáo không bắt đầu bằng những nỗ lực của một cộng đồng nhằm thực hành những lời dạy của một nhà lãnh đạo vĩ đại. Không có “tiêu chuẩn ban đầu” trong tôn giáo vì không có người sáng lập chính thức. Do đó, Kirkland tuyên bố rằng “sự đa dạng của các tín ngưỡng và thực hành của Đạo giáo không thể được giải thích một cách hợp lý về mặt chính thống so với không chính thống, chính thống so với không chính thống.” (2005)

Đạo giáo, bởi vì nó không được thành lập bởi một người duy nhất, kết hợp nhiều lý thuyết từ các tôn giáo hoặc tín ngưỡng triết học khác nhau. Để bắt đầu, các học thuyết của tôn giáo Đạo giáo phần lớn tiếp thu sự thờ phượng của tôn giáo Ngô cổ đối với các vị thần tự nhiên và một loạt các nghi thức ma thuật phức tạp. Ví dụ, các tín đồ tôn giáo Ngô cổ đã nhân cách hóa sấm sét thành một vị thần có đầu người trên thân rồng, và sét như một nữ thần với cơ thể nữ giới. Nhà lãnh đạo của tôn giáo Wu được ngưỡng mộ là người kết nối với các vị thần và công bố những lời của thần. Do đó, tôn giáo Ngô cổ đại đã có một số nghi lễ nhảy múa độc đáo để “kết nối với thần linh”, điều này đã hình thành nên một phần của các thực hành Đạo giáo ban đầu.

Yếu tố thứ hai là lý thuyết của Fangxian Tao (tôn giáo bất tử hình vuông), nhấn mạnh về việc con người theo đuổi cuộc sống vĩnh cửu và mong muốn được trở thành người bất tử. Lý tưởng của Fangxian đã phổ biến từ thời Chiến quốc, khi mọi người thử nghiệm nhiều phương pháp khác nhau để kéo dài tuổi thọ, chẳng hạn như chế tạo thuốc trường sinh, thờ ma và thần, ăn các kim loại và thực vật cụ thể. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là việc tạo ra những viên thuốc trường sinh, sau này trở thành hoạt động phổ biến nhất của các đạo sĩ. Fangxian Tao đã trở thành một thành phần thiết yếu của Đạo giáo.

Cuối cùng, Đạo giáo ban đầu được hình thành như một đối trọng chống lại Đạo Phật. Theo Russel Kirkland, các đạo sĩ đầu tiên xuất hiện vào thế kỷ thứ 5 CN (nhà Hán) để chống lại các Phật tử nước ngoài. Ảnh hưởng ngày càng tăng của Phật giáo ở các bang miền bắc và miền nam của Trung Quốc đã thúc đẩy những người từ chối chấp nhận Phật giáo phải tìm kiếm một bản sắc mới. Những người đó đến với nhau bởi vì họ không hài lòng với ảnh hưởng của Phật giáo và sự ưu ái chính trị, điều này đã mang lại “‘ sự kính trọng ’cho những quý tộc đang cố gắng xây dựng một truyền thống tôn giáo phi Phật giáo toàn diện của riêng họ” (Kirkland, 2005). Trong vài trăm năm tiếp theo, Đạo giáo ngày càng nổi tiếng và phổ biến trong xã hội Trung Quốc, đạt đến đỉnh cao quyền lực trong các triều đại Đường (618–907) và Tống (618–960) (960-1279).